Nửa thế kỷ trước, một chàng thanh niên ở tuổi “tam thập nhi lập” sau hơn 10 năm rời khỏi quê nhà, thành phố Quy Nhơn, nơi cha mẹ và 7 anh chị đang cư ngụ, vào Nam tìm cái sống. Khi đã có sự nghiệp trong tay, Ông thấy rõ hơn ngày trước: vạn vật vô thường, tất cả đều phù du, và nhất là “sinh lão bệnh tử” không ngoại lệ cho bất cứ một ai như Đức Phật đã dạy. Điều mà Ông đã ý thức ngay từ ấu thơ, càng thúc đẩy Ông tầm sư học đạo giải thoát. Chúng ta thử nhìn lại những mốc thời gian qua những sự kiện trải dài suốt 50 năm của Ông với thiền Vô-Vi như thế nào? Ông đây không ai khác hơn chính là Thiền Sư Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên.
Năm 1956, ở tuổi 33, duyên may Ông được giới thiệu đến gặp Cụ Đỗ Thuần Hậu, tức Ông Tư, Tổ Sư pháp tu thiền Vô-Vi tại Đakao, Sài Gòn và thọ giáo tu học. Sau 7 tháng công phu, Ông chứng ngộ và bắt đầu xuất Hồn lên học đạo ở cõi trên. Chỉ 7 tháng công phu mà Ông đã chứng ngộ. Phải chăng ở ngàn kiếp trước Ông tu gần hay đã đạt đạo, ở kiếp này chỉ cần ôn lại để tiếp tục với Thiền Vô-Vi?
“Xuất Hồn lên cõi trên học đạo” rất ư khó tin cho những hành giả nào chưa từng được xuất Hồn trong lúc thiền định; cũng như rất ư khó tin cho những chú cá và những sinh vật chỉ trọn kiếp ngụp lặn trong thế giới của nước, khi nghe những chú rùa sống được cả trong và ngoài nước, mô tả những hiện cảnh trong không gian chúng ta.
Xuất Hồn chỉ đến với những thiền giả trong trạng thái tâm thân hoàn toàn Định, và khi đã được Định, hành giả tiếp tục thiền để tiến tới khai mở Huệ căn, Vô-Vi thường gọi “Mở Huệ”. Cái Giới Định Huệ mà chúng ta đã thường nghe trong kinh Phật. Mở Huệ, Ông Lương Sĩ Hằng phải học thêm nào đạo, nào pháp, nào thuyết giảng, nào viết văn, nào làm thơ, ... "Thấu Truyền" là bài thơ đầu tiên trong đời Ông:

Thấu Truyền
Tô lục chuốt hồng tựa cảnh tiên
Điểm mùi chua ngọt lòng xao xuyến
Sơn tinh thủy tú luân phiên hiện
Hà thủy đục trong khắp các miền
Thợ vẽ hồn thơ gieo ý nguyện
Khéo khôn khôn khéo tầm phương chuyển
Xây dựng ngày kia sẽ thấu truyền
Tô Điểm Sơn Hà Thợ Khéo Xây!
Và từ đó, cứ thế, giảng đạo, làm thơ, viết văn ... với Ông rất dễ dàng, không khó khăn như lúc ban đầu. Những bài thuyết giảng, những áng thơ, những bài văn viết của Ông không trau chuốt, không mỹ ngữ, không bóng mượt như những văn thi sĩ trên diễn đàn văn học nghệ thuật nhân gian như chúng ta thường nghe, thường đọc, nếu không muốn nói rất ư bình dị, rất ư đơn thuần mộc mạc. Đây chính là cái ưu điểm đã đem Ông lại gần với mọi người, mọi trình độ, mọi tầng lớp trong cõi này. Rất nhiều người cho rằng đọc văn thơ Ông, nghe Ông thuyết giảng nếu ngẫm nghĩ càng lâu chúng ta càng tìm được cái đạo lý cao thâm qua những gì Ông nói, Ông giảng, Ông giải, Ông viết...
Tu học của Ông không phải ngừng lại tại đây nhưng hằng đêm, Ông vẫn phải tiếp tục hành thiền, trau luyện đạo pháp không ngừng. Ông học từ vô tự chân kinh. Cho đến năm 1957, Ông cùng Cụ Đỗ Thuần Hậu có dịp viếng thăm chùa Xá Lợi. Tại đây, Ông gặp một số Phật Tử cùng nhau luận bàn Phật pháp. Và cũng từ đó, người này đồn người kia, tự động đến tư gia Ông để vấn đạo vào mỗi chủ nhật. Thường ngày, Ông vẫn đi làm cho công ty Getz Brothers tại đường Hàm Nghi, Sài gòn để cho cái sống cho chính Ông, cho những người thân và cho những người nghèo khổ không được may mắn như Ông.

Suốt thời gian 1968-1975, người đến nghe Ông giảng đạo ngày càng đông, nên có một vài hành giả đã phát tâm cống hiến tư gia rộng rãi hơn để Ông có chỗ đến thuyết giảng và cùng mọi người chung thiền. Thời đó, người ta gọi Ông là Ông Tám rất ư thân mật; và đồng thời Ông đối xử với mọi người như những người bạn chơn tu, những bạn đạo Vô-Vi, đầy thâm tình. Ông chưa bao giờ tự nhận là Thầy, là Sư Phụ của bất cứ ai và cũng chưa hề thâu nhận ai là học trò, là đệ tử. Ông thường nói Ông chỉ là một người đi trước hướng dẫn những gì Ông biết cho những người bạn đi sau để cùng nhau học đạo giải thoát kiếp trầm phù này.
Ông cho biết Ông chỉ là “dân chơi” hiểu đạo, nói đạo trong hồn nhiên và tự nhiên. Tuổi đạo của Ông không bằng ai, tu hành của Ông không giống ai, không phẩm chức, không đạo vị, và cũng không học vị với đời. Ông không gì cả. Không như 2 con số KHÔNG hợp lại như thứ tự của Ông trong gia đình nhân gian. Ông Tám không tự cho mình là Ông mà chỉ nhận mình là Bé Tám với tất cả mọi người.