Tôi là ai?

Tôi là ai?

Sao không tự sửa tự an bài?

Tôi là ai?

Sao không giải quyết lập đài thanh cao?

Tôi là ai?

Sao không tự thức tiến hoài không ngưng?

Tôi là ai?

Sao không thanh tịnh hai vai nhẹ nhàng?

Tôi là ai?

Sao không hưởng khổ sánh vai Cha Trời

Tôi là ai?

Sao không minh đạo bước vào càn khôn?

Tôi là ai?

Sao không xây dựng ngày ngày đạt an?

Tôi là ai? Tôi là ai????



Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên
Ngày 15 tháng 10 năm 1988

50 năm vui buồn của Thiền Sư Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên với thiền Vô-Vi

Nửa thế kỷ trước, một chàng thanh niên ở tuổi “tam thập nhi lập” sau hơn 10 năm rời khỏi quê nhà, thành phố Quy Nhơn, nơi cha mẹ và 7 anh chị đang cư ngụ, vào Nam tìm cái sống. Khi đã có sự nghiệp trong tay, Ông thấy rõ hơn ngày trước: vạn vật vô thường, tất cả đều phù du, và nhất là “sinh lão bệnh tử” không ngoại lệ cho bất cứ một ai như Đức Phật đã dạy. Điều mà Ông đã ý thức ngay từ ấu thơ, càng thúc đẩy Ông tầm sư học đạo giải thoát. Chúng ta thử nhìn lại những mốc thời gian qua những sự kiện trải dài suốt 50 năm của Ông với thiền Vô-Vi như thế nào? Ông đây không ai khác hơn chính là Thiền Sư Lương Sĩ Hằng - Vĩ Kiên.

Năm 1956, ở tuổi 33, duyên may Ông được giới thiệu đến gặp Cụ Đỗ Thuần Hậu, tức Ông Tư, Tổ Sư pháp tu thiền Vô-Vi tại Đakao, Sài Gòn và thọ giáo tu học. Sau 7 tháng công phu, Ông chứng ngộ và bắt đầu xuất Hồn lên học đạo ở cõi trên. Chỉ 7 tháng công phu mà Ông đã chứng ngộ. Phải chăng ở ngàn kiếp trước Ông tu gần hay đã đạt đạo, ở kiếp này chỉ cần ôn lại để tiếp tục với Thiền Vô-Vi?

“Xuất Hồn lên cõi trên học đạo” rất ư khó tin cho những hành giả nào chưa từng được xuất Hồn trong lúc thiền định; cũng như rất ư khó tin cho những chú cá và những sinh vật chỉ trọn kiếp ngụp lặn trong thế giới của nước, khi nghe những chú rùa sống được cả trong và ngoài nước, mô tả những hiện cảnh trong không gian chúng ta.

Xuất Hồn chỉ đến với những thiền giả trong trạng thái tâm thân hoàn toàn Định, và khi đã được Định, hành giả tiếp tục thiền để tiến tới khai mở Huệ căn, Vô-Vi thường gọi “Mở Huệ”. Cái Giới Định Huệ mà chúng ta đã thường nghe trong kinh Phật. Mở Huệ, Ông Lương Sĩ Hằng phải học thêm nào đạo, nào pháp, nào thuyết giảng, nào viết văn, nào làm thơ, ... "Thấu Truyền" là bài thơ đầu tiên trong đời Ông:

Thấu Truyền

Tô lục chuốt hồng tựa cảnh tiên

Điểm mùi chua ngọt lòng xao xuyến

Sơn tinh thủy tú luân phiên hiện

Hà thủy đục trong khắp các miền

Thợ vẽ hồn thơ gieo ý nguyện

Khéo khôn khôn khéo tầm phương chuyển

Xây dựng ngày kia sẽ thấu truyền

Tô Điểm Sơn Hà Thợ Khéo Xây!

Và từ đó, cứ thế, giảng đạo, làm thơ, viết văn ... với Ông rất dễ dàng, không khó khăn như lúc ban đầu. Những bài thuyết giảng, những áng thơ, những bài văn viết của Ông không trau chuốt, không mỹ ngữ, không bóng mượt như những văn thi sĩ trên diễn đàn văn học nghệ thuật nhân gian như chúng ta thường nghe, thường đọc, nếu không muốn nói rất ư bình dị, rất ư đơn thuần mộc mạc. Đây chính là cái ưu điểm đã đem Ông lại gần với mọi người, mọi trình độ, mọi tầng lớp trong cõi này. Rất nhiều người cho rằng đọc văn thơ Ông, nghe Ông thuyết giảng nếu ngẫm nghĩ càng lâu chúng ta càng tìm được cái đạo lý cao thâm qua những gì Ông nói, Ông giảng, Ông giải, Ông viết...

Tu học của Ông không phải ngừng lại tại đây nhưng hằng đêm, Ông vẫn phải tiếp tục hành thiền, trau luyện đạo pháp không ngừng. Ông học từ vô tự chân kinh. Cho đến năm 1957, Ông cùng Cụ Đỗ Thuần Hậu có dịp viếng thăm chùa Xá Lợi. Tại đây, Ông gặp một số Phật Tử cùng nhau luận bàn Phật pháp. Và cũng từ đó, người này đồn người kia, tự động đến tư gia Ông để vấn đạo vào mỗi chủ nhật. Thường ngày, Ông vẫn đi làm cho công ty Getz Brothers tại đường Hàm Nghi, Sài gòn để cho cái sống cho chính Ông, cho những người thân và cho những người nghèo khổ không được may mắn như Ông.

Placeholder image 

Suốt thời gian 1968-1975, người đến nghe Ông giảng đạo ngày càng đông, nên có một vài hành giả đã phát tâm cống hiến tư gia rộng rãi hơn để Ông có chỗ đến thuyết giảng và cùng mọi người chung thiền. Thời đó, người ta gọi Ông là Ông Tám rất ư thân mật; và đồng thời Ông đối xử với mọi người như những người bạn chơn tu, những bạn đạo Vô-Vi, đầy thâm tình. Ông chưa bao giờ tự nhận là Thầy, là Sư Phụ của bất cứ ai và cũng chưa hề thâu nhận ai là học trò, là đệ tử. Ông thường nói Ông chỉ là một người đi trước hướng dẫn những gì Ông biết cho những người bạn đi sau để cùng nhau học đạo giải thoát kiếp trầm phù này.

Ông cho biết Ông chỉ là “dân chơi” hiểu đạo, nói đạo trong hồn nhiên và tự nhiên. Tuổi đạo của Ông không bằng ai, tu hành của Ông không giống ai, không phẩm chức, không đạo vị, và cũng không học vị với đời. Ông không gì cả. Không như 2 con số KHÔNG hợp lại như thứ tự của Ông trong gia đình nhân gian. Ông Tám không tự cho mình là Ông mà chỉ nhận mình là Bé Tám với tất cả mọi người.

Placeholder image 

Trước sự khiêm nhường của Ông, người đến học thiền muốn tỏ lòng tôn kính vẫn gọi Ông là Thầy Tám hay Đức Thầy. Với Ông, ngay từ bấy giờ thì Bé Tám, Ông Tám, Thầy Tám, Đức Thầy hay Thiền Sư, vv... chỉ là những danh xưng dùng cho đời, dùng dễ gọi khỏi lầm lẫn người này với người kia mà thôi. Tất cả chỉ là không. Đã thấu triệt được không sắc, không tướng, không danh, không lợi thì còn chú trọng chi đến danh xưng của sắc không, không sắc thêm phiền toái. Vạn vật phù du.

Suốt 6-7 năm trời, những người tầm đạo thường đến với Ông 1 trong 3 thời điểm sau:

Chiều thứ bảy: Ông thuyết giảng và cùng bạn đạo sinh hoạt tại tư gia của một bạn đạo, ông bà Hồ Văn Em tại Thủ Đức.

Chủ nhật: Ông thuyết giảng tại tư gia của ông Nguyễn Xuân Liêm buổi sáng, và chiều tại nhà ông Mai Ngọc Pháp. 

Ông trực tiếp giải đáp những thắc mắc bằng tiếng Hoa cho những người Hoa, hay tiếng Việt cho người Việt để tất cả cùng am tường.

Đường đạo đầy chông gai. Hai chữ “Đạt Đạo” sáng ngời đến với Ông không phải đơn thuần đạt được một cách dễ dàng mà phải trăm ngàn gian truân, khổ ải mà Ông phải gánh chịu. Ngoài việc chống lại những cám dỗ từ miếng ăn, cái ngủ, cái sống đầy tham sân si hỉ nộ ái ố dục mà Ông trót sinh làm người phải cưu mang như một nghiệp chướng, phải từ từ gọt dũa, buông bỏ, tu tâm, sửa tánh, Ông còn phải đương mặt với người đời.

Placeholder image
Placeholder image

Thiền đường Hồ Văn Em

Pháp thiền Vô-Vi là một pháp tu mới lạ, không đến chùa, không xuất gia, không quy y, không tụng kinh như những Phật tử khác, mà hằng đêm phải âm thầm thiền tọa để tìm ánh sáng trong bóng tối, tìm cái tĩnh lặng trong thế giới loạn động, tìm cái minh triết từ cõi vô minh.

Thiền Vô-Vi phá mê, phá chấp, không mê tín, không dị đoan, cho nên có một số người cho rằng Ông đang thực hành một tà đạo và họ đã có những hành động không mấy tốt đẹp đối với Ông. Ngay cả những người thân nhất của Ông, những bạn đời của Ông cũng không thoát khỏi những định kiến cố chấp này. Để giải tỏa cảm nghĩ không đúng của thế nhân, thay vì thanh minh phân bôi, Ông lặng lẽ kiên trì tu hành để sớm đạt đạo, sớm được “hữu xạ tự nhiên hương”. Với một số người tu khác đạo và ngay cả với vài người từng tập thiền Vô-Vi sau thời gian theo học vì ganh tị, vì đố kị cá nhân, vì danh lợi không thỏa mãn, v.v... đã không ngần ngại bêu xấu, phỉ báng trực tiếp hay gián tiếp Ông và pháp thiền Vô-Vi một cách thậm tệ, vô ý thức. Họ tận dụng báo chí hay phương tiện truyền thông hiện đại internet để cố tình triệt hạ uy tín Ông.

Placeholder image 

Đường trần quá khổ, đường tu lắm chông gai. Không những chỉ thế gian đem lại nhiều khổ lụy, phiền toái đến cho Ông, ngay cả cõi vô hình Ông cũng gặp nhiều rắc rối. Nhiều lúc tâm tình với những bạn đạo hiếu kỳ, tìm hiểu những chuyện xảy ra trong lĩnh vực tâm linh, nhiều câu hỏi được đặt ra:

Placeholder image

Tết Nhâm Tuất 1982, Thiền đường Hồ Văn Em

Ở cõi trần gian, ô trược này thì Thầy Lương Sĩ Hằng thường bị nhiều sự quấy phá của những yêu tinh trong lớp người, nhưng còn với cõi vô hình thì Thầy có bị như vậy không?

Ông thật thà giải thích:

Sự sống của cõi Vô Hình cũng như Hữu Hình này, có rất nhiều tầng lớp, cấp đẳng, giống y như trần gian, do đó những vị thiêng liêng thường đến thử thách. Có lần, có một vị tự xưng là Sứ Thần của Thượng Đế đến gặp, thay vì bắt tay chào hỏi như mọi người, vị ấy chụp ngay mấy ngón tay lên đầu của tôi, tôi cảm thấy có 3 luồng điển truyền vào người, nhưng tôi chỉ trì tâm niệm Phật để hoá giải. Sau một lúc cái thần lực tấn công của vị Sứ Thần gặp phản động lực, trả ngược lại, mặt ông ta trở nên xanh xao, và cuối cùng phải tự thú nhận những điều tội lỗi của mình trong quá khứ và xin nguyện sẽ tu hành đúng đắn hơn.

ThiềnSư kể tiếp: 

Và những năm trước 1976, có nhiều vị tìm đến gặp để tham vấn, trong đó có cô Lê Hoàng Kim, hỏi luồng điển mà cô đã nhận được có phải thật sự là chánh điển không? Tôi xác nhận là đúng và khuyên cô nên cứ tiếp nhận và tiếp tục học hỏi. Cuốn Thượng Đế Giảng Chơn Lý thành hình từ đó.

Quốc nạn tháng 4 năm 1975, bạn bè rủ đi vượt biên, thì khi đến Vũng Tàu Ông bị bắt đưa vào trại cải tạo. Tại đây, Ông châm cứu trị liệu cho những tù nhân, và đem triết lý của cuộc sống ảnh hưởng họ. Với tốc độ hiệu năng nhanh chóng nên Ông được người trong trại truy tặng là “Thần Châm”, và là một bậc lương y trong trại, suốt thời gian 13 tháng 1 tuần lễ. Sau khi rời khỏi trại cải tạo đi về nhà, thì Ông tiếp tục châm cứu, giúp đỡ đồng bào miễn phí. Có ngày hàng trăm người đến châm cứu. Vì số người đến với Ông quá đông, nên chẳng bao lâu thì Ông lại được đưa đi kinh tế mới, vùng núi Sập.

Đầu năm 1979, Ông cùng gia đình rời Việt Nam bằng tàu và khi ra khơi được tàu Pháp Surcouf cứu vớt, đưa về định cư tại trại tế bần Jose Fabella center, Manila. Suốt thời gian đó, Ông tích cực châm cứu cho thuyền nhân trong trại và những người giàu có ở thành phố Manila, để có tiền giúp đồng bào tỵ nạn trong trại.

Placeholder image 
Placeholder image

Hằng ngày, Ông đem về trại rất nhiều tặng phẩm của các thân chủ người Phi thưởng công cho Ông như tiền bạc, gạo trắng, quần áo, thuốc men, v.v... Tất cả, Ông đem giúp hết cho đồng hương bớt được phần nào sự thiếu thốn về vật chất.

Cuối năm 1979, tháng 12, Ông và gia đình rời Manila sang định cư tại Canada cho đến nay.

Từ năm 1980 trở đi, Ông bắt đầu thuyết giảng vòng quanh thế giới. Trong những chuyến đi này, Ông đã dùng nhiều phương tiện khác nhau, uyển chuyển đưa Thiền Vô-Vi đến với mọi người.

Đại Hội Vô-Vi đầu tiên khởi đầu từ năm 1982, Học Nhẫn Học Hòa tại Long Beach, miền nam California, USA. Đại Hội thường niên do bạn đạo địa phương phát tâm tổ chức, mỗi năm một địa điểm khác nhau, dưới sự chủ tọa của Ông. Tất cả là 27 đại hội.

Placeholder image 
Placeholder image

Ông quan niệm, người tu thiền Vô-Vi không những chỉ học cái đạo tâm linh mà còn phải học cái tiến hóa của khoa học thực nghiệm. Cho nên, những kỳ Đại Hội thường được tổ chức những nơi đầy đủ tiện nghi vật chất hiện đại cho tất cả bạn đạo, không phân biệt giới tính, sắc tộc, ở mọi tuổi tác, ở mọi trình độ, ở mọi tầng lớp đều được dịp thích ứng với khoa học kỹ thuật tân tiến ngày nay.

 

Song song với Đại Hội còn có những buổi Thuyết Giảng ở từng địa phương, nơi Ông đặt bước chân đến, và những Khóa Sống Chung khắp năm châu, để người học thiền Vô-Vi có dịp quy tụ về một nơi, cùng một thời điểm, cùng nhau trao đổi kinh nghiệm tu học.

Placeholder imageKhóa Sống Chung đầu tiên là Khóa Kinh A Di Đà, được tổ chức ở Úc Châu, ngày 01 tháng 01 năm 1986

Từ năm 1997 trở đi, qua kinh nghiệm bản thân, Ông khuyến khích bạn đạo ý thức đến “Sức Khỏe và Tâm Linh” và mở các Khóa Sống Chung, trong đó ứng dụng thêm phương pháp Thanh Lọc Dưỡng Sinh, thanh lọc bản thể cho thân xác được thanh nhẹ hỗ trợ thêm cho việc học thiền dễ dàng hơn.

Năm 1996 là Thiền Ca đầu tiên tại Frankfurt, với chủ đề là “Đời Đạo Song Tu”, được Ông dùng làm phương tiện đưa pháp thiền Vô-Vi vào đời.

Nhạc Thiền thấm dần vào đời một cách tự nhiên với tất cả thể loại, âm giai, tiết tấu như nhạc đời nhưng mang đậm nét đạo qua sự tiếp tay của các nhạc sĩ hữu danh, các nghệ sĩ tài ba, các ca sĩ tên tuổi, các vũ công điêu luyện trình diễn, đem triết lý thiền Vô-Vi đến với mọi người và mọi giới. Thiền Ca mỗi năm một chủ đề, trình diễn tại những thành phố lớn khác nhau, nơi đông người Việt thuận tiện tham dự. Ngoài ra, tại những thành phố lớn nhiều người Việt cư ngụ, bạn đạo địa phương dùng đài phát thanh rót đạo lý Vô-Vi, rót những bài giảng của Thiền Sư Lương Sĩ Hằng, rót những Thiền khúc qua những làn sóng hằng ngày, hằng tuần vào nhĩ thức của người đời.

Placeholder image 

Suốt 50 năm, đêm nào cũng vậy, Ông trả lời thư từ, vấn đạo khắp mọi nơi gửi đến, và Ông viết Mục Bé Tám cho bạn đạo nghiên cứu thêm đạo pháp. Mục Bé Tám, Ông viết trong tâm KHÔNG, điển ý tiếp nhận sao Ông viết ra vậy, không thêm bớt, không trau chuốt, không thể luật, không văn tự của người đời. Nếu phải “vạch lá để tìm sâu” thì không thể nào tránh khỏi cái không văn tự, cái không quy luật mà người đời đặt ra. Vạn vật đã vô thường thì còn chấp làm gì vào những cái có có không không đó.

Hơn nửa thế kỷ, Ông đã xả thân cho Thiền Vô-Vi, nhiệt tâm đem pháp lý tu học giải thoát phổ biến cho mọi người muốn thoát nghiệp luân hồi, trầm luân. Ông không màng ai khen, ai chê về con người và cuộc sống cá nhân Ông. Pháp lý Vô-Vi do Cụ Đỗ Thuần Hậu vẫn là pháp tu thiền giải thoát, sẵn sàng đón nhận những người còn chưa tìm được nẻo sáng cho chính mình trước khi giã từ cõi u minh này.

Đây chính là hơn 50 năm vui buồn của Thiền Sư Vĩ Kiên, Lương Sĩ Hằng với Thiền Vô-Vi. Xin Thượng Đế chứng giám và ban ân điển đến Người.

Thiền sư liễu đạo ngày 23 tháng 9 năm 2009 (nhằm ngày 05 tháng 08 năm Kỷ Sửu, thọ 86 tuổi)


Hoàng Vinh & Phạm Xuân Bằng
Tháng 6 năm 2007

Đức Phật sống